Sunday, 7 November 2010

6 nỗi sợ ngăn cản sự thành công của bạn

Sợ nghèo khó
Không nghi ngờ gì, nỗi Sợ bị nghèo khó là nỗi sợ hãi huỷ diệt nhất trong sáu nỗi sợ hãi cơ bản. Nó đứng đầu danh sách vì nó là nỗi sợ khó khắc phục nhất. Con người, với khả năng trực giác vượt trội hơn, có khả năng suy nghĩ và lý luận, không ăn thịt đồng loại, họ thoả mãn hơn khi “ăn nhau” về mặt tài chính.

Trong tất cả các thời đại của thế giới mà chúng ta biết, thời đại mà chúng ta đang sống có vẻ như là một thời đại nổi bật vì chứng điên vì tiền của con người. Một người được coi là nhỏ bé hơn hạt bụi trên trái đất, trừ khi anh ta có thể phô trương một tài sản kếch xù tại ngân hàng; nhưng nếu anh ta có tiền - đừng bao giờ bận tâm đến việc anh ta có được tiền bằng cách nào – anh là “vua” hoặc “đại gia”; anh ta đứng trên luật pháp, anh thống lĩnh chính trị, anh thống lĩnh kinh doanh và cả thế giới phải cúi đầu kính trọng khi anh ta đi qua.
Không điều gì mang lại cho con người quá nhiều đau khổ và địa vị hèn mọn như nghèo khó! Chỉ những người đã trải qua nghèo khó mới hiểu được đầy đủ ý nghĩa của vấn đề này.
Tất nhiên là con người sợ bị nghèo khó. Tuy nhiên, chỉ sự phân tích can đảm mới phơi bày được sự hiện diện của kẻ thù phổ biến này. Và đây là danh sách các triệu chứng mà bạn phải tìm kiếm:
Các triệu chứng của nỗi sợ bị nghèo khó
TÍNH THỜ Ơ. Thường được diễn đạt qua sự thiếu tham vọng; muốn chịu đựng nghèo khó; chấp nhận bất kỳ sự bồi thường nào mà cuộc đời có thể dâng tặng mà không phản đối; biếng nhác; không có sáng kiến, thiếu óc tưởng tượng, thiếu lòng nhiệt tình và tính tự chủ.
THIẾU QUẢ QUYẾT. Thói quen cho phép người khác làm điều họ suy nghĩ. Dừng lại “ở vị trí người trung lập”.
NGỜ VỰC. Thường được diễn đạt qua các chứng cớ ngoại phạm và các lý do bào chữa được tính toán nhằm che đậy, giải thích khác đi, hoặc tạ lỗi về các thất bại của con người, đôi khi được diễn đạt dưới hình thức đố kỵ những người thành công, hoặc phê bình chỉ trích họ.
LO LẮNG. Thường được diễn đạt bằng việc chê trách người khác, khuynh hướng tiêu xài vượt quá thu nhập, cẩu thả về diện mạo, cau có và tư lự; rượu chè quá độ, đôi khi còn sử dụng cả ma tuý; trạng thái hốt hoảng, thiếu tự tin, không có ý thức về bản thân và thiếu tự lực.
QUÁ THẬN TRỌNG. Thói quen tìm kiếm khía cạnh tiêu cực của mọi hoàn cảnh, suy nghĩ và nói về thất bại có thể xảy ra mặc dù tập trung vào phương tiện thành công. Biết hết các ngả đường dẫn đến tai hoạ, nhưng không bao giờ nghiên cứu các kế hoạch để tránh thất bại. Chờ đợi “thời cơ đến” để bắt đầu đưa ý tưởng và kế hoạch vào hành động, cho đến khi sự chờ đợi trở thành thói quen vĩnh viễn. Cứ mãi nhớ đến người thất bại mà quên khuấy những người thành công, nhìn thấy những lỗ hổng giữa chiếc bánh rán, nhưng lại không nhìn thấy chiếc bánh rán. Tính bi quan yếm thế dẫn đến sự không thấu hiểu, không dám loại bỏ, tự nhiễm độc, thở yếu và tâm tính buồn rầu.
TÍNH CHẦN CHỪ. Thói quen hoãn lại đến ngày mai công việc đáng ra phải làm từ năm ngoái. Dùng thời giờ để tạo ra chứng cứ ngoại phạm và lý do bào chữa cho việc không thực hiện công việc. Triệu trứng này có quan hệ mật thiết với tính quá thận trọng, nghi ngờ và lo lắng. Từ chối không lãnh nhận trách nhiệm khi có thể tránh được. Muốn thoả hiệp hơn là đánh một trận sống mái. Thoả hiệp với các khó khăn thay vì khai thác và sử dụng chúng làm bàn đạp tiến lên. Trả giá từng đồng xu với vuộc đời, thay vì đòi hỏi sự thịnh vượng, sự giàu có, sự mãn nguyện và hạnh phúc. Đặt kế hoạch phải làm gì nếu và khi bị thất bại, thay vì qua sông đốt cầu và cắt hết mọi đường thoái lui. Nhu nhược và thường mất hết tự tin, tự chủ, và thiếu minh định mục tiêu, không có sáng kiến, thiếu nhiệt tình, tham vọng, hoang phí và không có khả năng lý luận vững chắc. Mong đợi nghèo khó thay vì đòi hỏi giàu có. Hay đánh bạn với những người chấp nhận nghèo khó thay vì kiếm cách làm bạn với người đòi hỏi và đón nhận giàu có.
Nỗi sợ bị nghèo khó đã làm cho hàng triệu người nam và nữ đờ người ra và rơi vào khủng hoảng. Westbrook Pegler đã mô tả tường tận tác động của loại sợ hãi này đến con người trong New York World-Telegram:
“Tiền bạc chỉ là vỏ sò hay đồng kim loại tròn hay mảnh giấy, và có các kho tàng của con tim và tâm hồn mà tiền bạc không thể mua được, nhưng đa số con người bị túng quẫn, không thể giữ được điều này trong tâm trí và duy trì tinh thần. Khi một người thất cơ lỡ vận và đi ăn mày, không thể kiếm được bất kỳ công việc nào, một điều gì đó xảy ra với tinh thần của người đó, có thể được quan sát qua bờ vai gục xuống, cách đội mũ, dáng đi và cái nhìn chằm chằm. Anh ta không thể thoát khỏi cảm giác tự ti giữa những người có việc làm đều đặn, cho dù anh ta biết họ chưa hẳn đã bằng anh xét về tính cách, trí thông minh hoặc khả năng…”. 
Sợ bị chỉ trích
Không ai có thể khẳng định rõ rệt là vì sao con người có nỗi sợ hãi này, nhưng có một điều chắc chắn – là con người có nó. Vì sao một người trung bình, kể cả trong thời đại khai sáng này, không dám chối bỏ niềm tin trong các truyền thuyết đã là nền tảng của hầu hết các tôn giáo cách đây vài thập niên? Câu trả lời là “vì sợ bị chỉ trích”.
Đã có nhiều người nam cũng như nữ bị thiêu sống vì dám tuyên bố không tin vào ma quỷ. Không có gì lạ khi chúng ta thừa hưởng một ý thức khiến chúng ta sợ bị chỉ trích.
Sợ bị chỉ trích tước đoạt của con người óc sáng kiến, hủy diệt khả năng tưởng tượng, hạn chế quyền lợi cá nhân, lấy đi tính tự lực, và gây tổn hại cho con người theo hàng trăm cách khác nhau. Cha mẹ thường gây ra những tổn thương không thể sửa chữa được cho con cái qua hành động chỉ trích chúng. Mẹ của một trong những bạn thân của tôi hồi nhỏ thường trừng phạt bạn tôi bằng roi gần như hàng ngày, luôn kết thúc trận đòn bằng lời khẳng định, “Mày sẽ đi tù trước tuổi hai mươi”. Và bạn tôi đã bị tống vào trại giáo hóa lúc mười bảy tuổi.
Mỗi người đều có một kho chỉ trích sẵn sàng tuôn ra biếu không, dù có được yêu cầu hay không. Chỉ trích phải được coi là một tội ác (trên thực tế, nó là tội ác có bản chất tồi tệ nhất), vì bất kì cha mẹ nào cũng tạo ra mặc cảm tự ti trong đầu óc con cái, qua hành động chỉ trích không cần thiết. Những ông chủ hiểu biết về nhân tính, sẽ xây dựng con người thành tốt nhất, không phải bằng chỉ trích mà bằng lời đề nghị xây dựng. Cha mẹ có thể đạt được cùng các kết quả như thế với con cái. Chỉ trích sẽ gieo sợ hãi vào tâm hồn con người, hoặc sự oán giận, mà không xây dựng tình yêu hoặc thiện cảm.
Các triệu chứng của nỗi sợ bị chỉ trích
BỒN CHỒN, KHÔNG TỰ NHIÊN. Nói chung được biểu lộ qua trạng thái hốt hoảng, bối rối, rụt rè, nhút nhát khi đối thoại và gặp gỡ người lạ, tay chân ngượng nghịu, mắt nhìn lẩn tránh.
THIẾU TỰ TIN. Biểu lộ qua việc không thể kiếm soát được giọng nói, bối rối khi có sự hiện diện của người khác, dáng vẻ khúm núm, kém trí nhớ.
TÍNH CÁCH. Không kiên quyết khi quyết định, thiếu sức quyến rũ, và không có khả năng diễn đạt ý kiến một cách rõ ràng. Có thói quen lảng tránh vấn đề thay vì thẳng thắn đối mặt. Đồng ý với người khác mà không xem xét cẩn thận với các ý kiến của họ.
MẶC CẢM TỰ TI. Có thói quen biểu lộ sự tự phê duyệt bằng lời nói và hành động như phương tiện che giấu cảm giác tự ti. Thích sử dụng “từ ngữ đao to búa lớn” để gây ấn tượng cho người khác (thường không biết ý nghĩa thực của từ ngữ). Bắt chước người khác trong ăn mặc, lời nói và cách cư xử. Khoe khoang các thành tựu tưởng tượng. Điều này đôi khi làm cho có diện mạo của cảm giác tự tôn.
QUÁ ĐỘ. Có thói quen cố gắng “ngang hàng với đại gia”, tiêu pha vượt quá thu nhập.
THIẾU SÁNG KIẾN. Thất bại ôm ghì lấy các cơ hội tự tiến bộ, sợ phát biểu ý kiến, thiếu tự tin về các ý tưởng của riêng mình, đưa ra các câu trả lời thoái thác trước yêu cầu của người trên, hành động và nói năng do dự, giả dối trong cả lời nói lẫn hành vi.
KHÔNG CÓ THAM VỌNG. Biến nhác, không tự khẳng định mình, chậm quyết định, dễ bị người khác ảnh hưởng, có thói quen chỉ trích sau lưng người khác và xu nịnh họ trước mặt, có thói quen chấp nhận thất bại mà không phản kháng, bỏ cuộc khi bị người khác chống đối, nghi ngờ người khác mà không có lý do, không lịch thiệp trong lời nói và hành động, không muốn chấp nhận trách nhiện về lỗi lầm của mình. 
Sợ bị sức khoẻ kém
Con người sợ bị sức khoẻ kém chủ yếu là do các hình ảnh khủng khiếp được gieo vào tâm trí họ minh hoạ những gì có thể sẽ xảy ra nếu thần chết bất thình lình thăm viếng họ. Một thầy thuốc đáng tin cậy ước tính 75% số người đi khám bệnh bị mắc chứng nghi bệnh. Thuyết phục nhất là nỗi sợ bị bệnh, ngay cả khi không có lý do gì phải sợ.

Trí não con người thật quyền lực và mạnh mẽ biết bao. Nó kiến tạo nhưng nó cũng huỷ diệt.
Thời gian dịch “cúm” bùng nổ hồi thế chiến, thị trưởng thành phố New York dùng các biện pháp quyết liệt để ngăn chặn tổn thất mà dân chúng đang tạo ra cho chính họ qua nỗi sợ bị sức khoẻ kém cố hữu. Ông mời các chủ báo đến và nói, “Thưa quý vị, tôi cảm thấy cần thiết phải yêu cầu quý vị không được cho đăng bất kỳ tiêu đề nào gây hoang mang có liên quan đến dịch “cúm”. Nếu quý vị không cộng tác với tôi, chúng ta sẽ lâm vào tình huống không thể kiểm soát được. Các báo ngưng không cho đăng các câu chuyện về “cúm” và trong vòng một tháng bệnh dịch được kiểm soát thành công.
Các thầy thuốc gửi bệnh nhân đến môi trường mới có lợi cho sức khoẻ của họ vì sự thay đổi “thái độ tinh thần” là cần thiết. Hạt giống sợ bị sức khoẻ kém sống trong mọi tinh thần của con người. Lo lắng, sợ hãi, nản lòng, tuyệt vọng trong tình yêu và trong công việc kinh doanh, sẽ khiến cho hạt giống này nảy mầm và mọc lên. Thời kỳ suy thoái thương mại vừa qua đã khiến các thầy thuốc phải chạy đôn, chạy đáo, vì mọi hình thức suy nghĩ tiêu cực đều có thể gây ra tình trạng sức khoẻ kém.
Thất vọng trong kinh doanh và trong tình yêu đứng đầu danh sách các nguyên nhân dẫn đến tình trạng sức khoẻ kém. Một thanh niên bị thất tình phải đưa vào bệnh viện chữa trị. Trong nhiều tháng anh ta ở trong tình trạng nửa sống nửa chết. Một chuyên gia liệu pháp ám thị được mời đến. Chuyên gia này đã thay đổi y tá, giao anh cho một thiếu nữ trẻ duyên dáng chăm sóc và (theo sự sắp đặt của bác sĩ) thiếu nữ này bắt đầu dành tình cảm cho anh ngay ngày đầu tiên đến nhận việc. Trong vòng ba tuần, bệnh nhân được xuất viện, vẫn còn đau khổ nhưng với một chứng bệnh hoàn toàn khác. Anh ta đang yêu lại. Phương thuốc chữa bệnh ấy là một trò chơi khăm, và bệnh nhân ấy cùng cô y tá kia sau này kết hôn với nhau. Cả hai đều rất khoẻ mạnh.
Các triệu chứng của nỗi sợ bị sức khoẻ kém
TỰ ÁM THỊ. Có thói quen sử dụng sự tự ám thị một cách tiêu cực bằng cách săm soi tìm cho được bằng chứng của mọi loại bệnh tật. “Có được” bệnh tưởng rồi thì bắt đầu nói về nó y như thật. Có thói quen thử tất cả các “sở thích kỳ cục” và các “thuyết” được người khác đề nghị là có giá trị chữa bệnh. Hay chuyện trò về phẫu thuật, tai nạn và các dạng bệnh tật khác. Hay thử nghiệm chế độ ăn kiêng, thể dục, giảm chế độ ăn mà không có hướng dẫn chuyên môn. Hay thử chữa trị tại nhà, dùng biệt dược và chữa trị theo kiểu “lang băm”.
CHỨNG NGHI BỆNH. Có thói quen nói đến bệnh tật, tập trung tâm trí vào bệnh tật và kỳ vọng nó sẽ xuất hiện cho đến khi bị tâm thần. Không thuốc gì có thể chữa được chứng này. Nó do suy nghĩ tiêu cực gây ra nên chẳng có phương cách nào ngoài tư tưởng tích cực là có thể tác động đến việc điều trị. Hầu hết các trường hợp này được gọi là “bệnh tâm thần”.
THỂ DỤC. Sợ bị sức khoẻ kém thường gây ra trở ngại cho việc tập thể dục đúng cách và gây ra béo phì, vì nó khiến người ta xa tránh cuộc sống ngoài trời.
NHẠY CẢM. Sợ bị sức khoẻ kém phá huỷ sức đề kháng tự nhiên của cơ thể và tạo điều kiện thuận lợi cho bất kỳ dạng bệnh tật nào xâm nhập và cơ thể. Sức khoẻ kém thường liên quan đến sợ bị nghèo khó, đặc biệt trong trường hợp người mắc chứng nghi bệnh, không ngớt lo lắng về khả năng phải trả tiền bác sĩ, tiền bệnh viện v.v… Loại người ngày tốn nhiều thời gian cho việc chuẩn bị mắc bệnh, nói đến cái chết, để dành tiền mua đất nghĩa trang, và chi phí ma chay…
NUÔNG CHIỀU BẢN THÂN. Có thói quen tìm cách để đạt được sự thương cảm, sử dụng bệnh tưởng tượng làm phương cách mồi chài. Có thói quen giả vờ bị bệnh để che giấu tính biếng nhác, hoặc để dùng như một bằng chứng ngoại phạm cho sự thiếu tham vọng.
QUÁ ĐỘ. Có thói quen sử dụng rượu và các loại ma tuý để phá tan các cơn đau như chứng nhức đầu, chứng đau dây thần kinh,… thay vì loại bỏ nguyên nhân. Có thói quen đọc sách nói về bệnh và lo lắng về khả năng có thể bị bệnh. Có thói quen xem các quảng cáo nói về biệt dược.
Nỗi sợ bị sứ khoẻ kém có thể phát sinh từ cả tính di truyền lẫn thể lý xã hội. Về nguồn gốc, nó liên kết mật thiết với các nguyên nhân sợ tuổi già và sợ chết. Vì nó dẫn con người đến biên giới của các “thế giới khủng khiếp” mà con người không biết đến.
Napoleon Hill 
 Sợ không được ai yêu thương
Nỗi sợ hãi gây đau khổ nhất trong tất cả sáu nỗi sợ hãi cơ bản đã tàn phá con người là nỗi sợ không được ai yêu thương. Nguồn gốc nguyên thuỷ của nỗi sợ hãi cố hữu này phát sinh do thói quen đa thê đa phu của con người, chiếm hữu bạn tình của đồng loại, và thói quen tự tiện với bạn tình bất kỳ khi nào có thể.

Ghen tuông, và các dạng tâm thần phân liệt phát sinh do nỗi sợ hãi bị mất tình yêu cố hữu của con người. Nỗi sợ hãi này có thể tàn phá cả thể xác lẫn tinh thần hơn bất kỳ nỗi sợ hãi cơ bản nào, vì nó thường dẫn đến điên rồ vĩnh viễn.
Sợ mất tình yêu có thể truy nguyên lại từ thời kỳ đồ đá, lúc mà đàn ông còn chiếm hữu phụ nữ bằng vũ lực. Họ tiếp tục chiếm hữu phụ nữ, nhưng kỹ thuật có thay đổi. Thay vì dùng vũ lực, giờ họ sử dụng sức thuyết phục, hứa hẹn tặng quần áo đẹp, xe hơi, và các loại “mồi câu” khác hữu hiệu hơn sức mạnh cơ bắp nhiều. Thói quen này của con người giống nhau như khi họ ở buổi đầu của thời đại văn minh, nhưng cách họ biểu lộ có khác đi.
Bảng phân tích tỉ mỉ cho thấy phụ nữ dễ bị nhiễm nỗi sợ hãi này hơn đàn ông. Sự kiện này dễ giải thích. Từ kinh nghiệm, phụ nữ biết rằng bản tính đàn ông là đa thê và họ không muốn giao phó người yêu vào tay đối thủ.

CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA NỖI SỢ BỊ MẤT TÌNH YÊU Các triệu chứng rõ nét của nỗi sợ hãi là:
GHEN TUÔNG. Có thói quen nghi ngờ bạn bè và người yêu mà chẳng cần bất kỳ bằng chứng hợp lý, đủ cơ sở nào. (Ghen tuông là một dạng tâm thần phân liệt, đôi khi trở nên mãnh liệt mà không có chút nguyên nhân nào). Có thói quen buộc tội vợ hoặc chồng vì không chung thuỷ mà chẳng có lý do chính đáng nào. Thường hay nghi ngờ mọi người, tuyệt đối không tin một ai.
BỚI MÓC. Có thói quen bới móc bạn bè, họ hàng, đồng sự và người yêu vì một sự khiêu khích nhỏ nhất, hoặc không vì lý do gì hết.
BÀI BẠC. Có thói quen bài bạc, trộm cắp, lừa đảo, nếu không thì cũng liều lĩnh vào các trò chơi may rủi khác để cung cấp tiền cho người yêu, với niềm tin cho rằng tình yêu có thể mua chuộc được. Có thói quen tiêu xài vượt quá thu nhập, hoặc nợ nần để mua quà tặng người yêu, với mục đích tạo ấn tượng. Thường mất ngủ, bồn chồn, hốt hoảng, thiếu bền bỉ, nhu nhựơc ý chí, không tự chủ, không tự lực, hay bực tức, cáu kỉnh.
Nếu không kiểm soát và loại bỏ được nỗi sợ không được ai yêu thương trong bản thân mỗi con người thì thành công và hạnh phúc sẽ mãi chỉ là điều không tưởng.
Napoleon Hill  
Sợ tuổi già
Có mặt trong bộ sáu nỗi sợ hãi căn bản của con người, góp công tạo nên sức mạnh khủng khiếp cho kẻ thù của thành công là Nỗi sợ tuổi già.

Nỗi sợ hãi này chủ yếu phát sinh từ hai nguồn. Thứ nhất, tư tưởng cho rằng tuổi già thường đi kèm sự nghèo khó. Thứ hai - vượt xa nguồn gốc nguyên thuỷ phổ biến nhất - từ các bài giảng dối trá và tàn ác của quá khứ được pha chế tài tình để nô dịch hoá con người bằng sự sợ hãi.
Trong nỗi sợ tuổi già, con người có hai lý do rất vững chắc - một là do con người không tin đồng loại, đồng loại có thể chiếm hữu bất kỳ của cải vật chất nào mà họ sở hữu, và lý do khác phát xuất từ các hình ảnh khủng khiếp về thế giới bên kia, được gieo vào tâm trí của họ.
Khả năng bị sức khoẻ kém càng mạnh hơn khi con người ngày càng có tuổi và trở thành nguyên do góp phần vào nỗi sợ tuổi già. Tính đa dâm (eroticism) cũng tham dự vào nguyên nhân sợ tuổi già, vì không ai muốn mình bị suy giảm sức hấp dẫn tình dục.
Nguyên nhân phổ biến nhất của sợ tuổi già được kết hợp với khả năng có thể bị nghèo khó. “Nhà tế bần” chẳng phải là một từ ngữ tốt đẹp gì. Nó khiến người ta rùng mình khi nghĩ đến chuyện phải trải qua những năm cuối đời trong trại tế bần.
Một nguyên do khác góp phần vào nỗi sợ tuổi già là khả năng bị mất tự do và sự độc lập, vì tuổi già mang theo nó sự mất mát cả tự do thể xác lẫn tự do kinh tế.

CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA NỖI SỢ TUỔI GIÀ Các triệu chứng phổ biến nhất của nỗi sợ hãi này là:
Khuynh hướng hành động chậm lại và phát triển mặc cả tự ti ở tuổi trưởng thành tinh thần, khoảng độ tuổi bốn mươi, tin tưởng sai lầm rằng cái tôi của mình đang “mắc sai lầm” do tuổi tác. (Sự thật là những năm hữu ích nhất của con người là những năm giữa độ tuổi bốn mươi và sáu mươi).
Có thói quen nói biện giải là cái tôi của mình “đang già” vì mình đã bốn, năm mươi tuổi rồi còn gì.
Có thói quen trì trệ, không muốn có sáng kiến, lười tưởng tượng, và mất tính tự lực vì tin tưởng sai lầm rằng mình đã quá già. Nam nữ ở độ tuổi bốn mươi có thói quen ăn mặc sao cho mình trông còn trẻ, và mô phỏng lại cách của người trẻ.
Những nỗi sợ hãi như một cơn lốc khủng khiếp sẵn sàng cuốn phăng con người khỏi chặng hành trình tìm đến thành công và hạnh phúc. Tiêu diệt kẻ thù này là điều tất yếu những người muốn thành công phải làm. 
Nỗi Sợ chết
Với một số người, đây là nỗi sợ khốc liệt nhất trong tất cả các nỗi sợ hãi cơ bản. Lý do quá hiển nhiên. Nỗi đau khủng khiếp của nỗi sợ hãi kết hợp với ý nghĩ về cái chết phần lớn chịu trách nhiệm trực tiếp về sự cuồng tín tôn giáo. Những người gọi là “ngừơi không văn minh” lại ít sợ chết hơn những người văn minh. Trong hàng trăm hàng triệu năm, con người vẫn không ngừng hỏi những câu hỏi chưa có câu trả lời, “từ đâu đến” và “sẽ đi về đâu”. Tôi từ đâu đến và tôi sẽ đi về đầu?
Giờ ta hãy chứng kiến nguồn nguyên thuỷ chính của nỗi SỢ CHẾT.
Nhà lãnh đạo của một giáo phái nào đó la lên, “Hãy bước vào lều của tôi, ôm lấy đức tin của tôi, chấp nhận giáo điều của tôi, và tôi sẽ cho bạn một vé vào thẳng thiên đàng sau khi chết”. Cũng vị lãnh đạo đó lại gào lên, “Nếu cứ ở ngoài lều, ma quỷ sẽ bắt bạn và thiêu cháy bạn đời đời”.
Đời là một thời gian dài. Lửa là vật gây khiếp sợ. Ý tưởng bị trừng phạt vĩnh viễn bằng lửa, không những khiến cho con người sợ chết, mà thường khiến họ mất trí nữa. Nó đánh mất mọi hứng thú và hạnh phúc ở đời.
Trong suốt công trình nghiên cứu, tôi xem lại cuốn sách có tựa là “Danh sách các Thần”, trong đó liệt kê 30.000 thần được con người thờ phượng. Bạn hãy suy nghĩ về điều đó. Ba mươi ngàn thần, tượng trưng cho mọi thứ. Điều hơi ngạc nhiên là con người trở nên hoảng sợ khi cận kề cái chết.
Trong khi nhà lãnh đạo tôn giáo không thể cung cấp con đường an toàn dẫn đến thiên đàng, cũng không thể làm cho người bất hạnh rơi xuống hoả ngục, khả năng xảy ra trường hợp sau có vẻ khủng khiếp đến nỗi hễ nghĩ tới là đã phát khiếp.
Thật ra, chẳng ai biết, và không ai từng biết, thiên đàng hay hoả ngục như thế nào, cũng không ai biết cả hai có thực hay không. Chính việc thiếu kiến thức tích cực này sẽ mở cánh cửa của kẻ bất tài nhưng hay loè bịp để họ bước vào và kiểm soát trí tuệ bằng đủ thứ trò lừa bịp.
Giờ thì nỗi sợ chết không phổ biến như trong thời không có các trường cao đẳng và đại học lớn. Các nhà khoa học đã quay ngọn đèn để soi rọi thế giới, và chân lý này sớm giải thoát con người khỏi nỗi sợ chết khủng khiếp. Các thanh niên nam nữ học ở các trường cao đẳng và đại học không dễ gì bị ấn tượng bởi “lửa” và “lưu huỳnh”. Nhờ sự trợ giúp của khoa sinh vật học, thiên văn học, địa chất học, và các môn khoa học khác có liên quan, nỗi sợ hãi của các thời đại đen tối từng kìm kẹp trí tuệ con người và huỷ diệt lý trí đã bị xua tan.
Các bệnh viện tâm thần đầy dẫy những con người phát điên vì sợ chết.
Nỗi sợ hãi này vô ích. Sự chết sẽ đến, cho dù người ta nghĩ nó là gì đi nữa. Hãy chấp nhận nó như một sự cần thiết, và đừng nghĩ về nó. Nó phải là điều cần thiết, hoặc nó chẳng xảy ra. Có lẽ nó không xấu như nó được tô vẽ.
Toàn thể thế giới được tạo dựng chỉ nhờ vào hai điều, năng lượng và vật chất. Trong vật lý học cơ bản chúng ta học là cả vật chất lẫn năng lượng (hai thực thể duy nhất được con người biết đến) đều không thể được tạo ra hoặc bị huỷ diệt. Cả vật chất lẫn năng lượng đều có thể được chuyển hoá, nhưng không bị huỷ diệt.
Cuộc sống là năng lượng, nếu nó là bất cứ vật gì. Nếu cả năng lượng lẫn vật chất đều không thể bị huỷ diệt, thì đương nhiên cuộc sống cũng không thể bị huỷ diệt. Cuộc sống, giống như một hình thức khác của năng lượng, có thể được biến đổi thành nhiều quy trình chuyển hoá hoặc thay đổi khác nhau, nhưng không thể bị huỷ diệt. Chết chỉ là một sự chuyển hoá.
Nếu chết không phải là một sự thay đổi, hoặc chuyển hoá, vậy thì không có điều gì xảy ra sau cái chết ngoại trừ một giấc ngủ yên bình, vĩnh hằng; mà giấc ngủ thì không có gì để phải sợ hãi. Do đó, bạn có thể loại bỏ mãi mãi nỗi sợ chết.
CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA NỖI SỢ CHẾT
Các triệu chứng chung bao gồm:
Thói quen suy nghĩ về cái chết thay vì tận dụng cuộc g sống, mà nói chung là do không có mục đích, hoặc không có nghề nghiệp phù hợp. Nỗi sợ hãi này phổ biến hơn ở những người cao tuổi, nhưng đôi khi những người trẻ lại là nạn nhân của nó. Phương pháp chữa trị hay nhất cho nỗi sợ chết là ham muốn cháy bỏng thành tích, nhờ được ủng hộ bởi sự giúp đỡ hữu hiệu của người khác. Một người bận rộn ít khi nào có thời giờ nghĩ về cái chết. Anh bận rộn ít khi nào có thời giờ nghĩ về cái chết. Anh ta thấy rằng cuộc sống quá ly kỳ nên không thể lo lắng đến cái chết được. Đôi khi nỗ sợ chết kết hợp mật thiết với nỗi sợ bị nghèo khó, ở chỗ cái chết của một người khiến cho người thân lâm vào nghèo khó. Trong các trường hợp khác, nỗi sợ chết là do bệnh tật và là hậu quả của việc phá vỡ sức đề kháng của cơ thể gây ra. Các nguyên nhân phổ biến nhất của nỗi sợ chết là: sức khoẻ kém, nghèo khó, không có nghề nghiệp thích hợp, thất vọng về tình yêu, sự điên rồ, sự cuồng tín tôn giáo.